1. KHÁI NIỆM
Công
cụ lao động là bộ phận quan trọng nhất của tư liệu lao động nó tác dụng trực tiếp
vào đối tượng lao động, quy định trực tiếp năng suất lao động. Trình độ công cụ
lao động là cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế.
2. VAI
TRÒ VÀ CỦA CÔNG CỤ LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI
I. Vai trò công cụ lao động trong thời
kỳ công xã nguyên thuỷ
Trong
xã hội nguyên thuỷ lực lượng sản xuất và năng suất lao động hết sức thấp kém,
người nguyên thuỷ bất lực trước sức mạnh của tự nhiên, phải chiến đấu vô cùng
khó khăn để tồn tại.
Trải
qua quá trình lao động hàng vạn năm, người nguyên thuỷ dần dần tích luỹ được
kinh nghiệm sản xuất đặc biệt là công cụ lao động và phương pháp sản xuất ngày
càng hoàn thiện hơn, kết quả là họ ngày càng tiết kiệm được sức lao động và thu
được sản phẩm nhiều hơn.
Trước
hết, từ những hòn đá tự nhiên, người nguyên thuỷ chế tạo thành những công cụ
đơn giản, hết sức thô kệch, với những hình thù nhất định như ghẻ, đão một mặt,
một đầu cho sắc, nhọn, có thể cầm tay để chặt, cắt, đập, đầm,.. như rìu, chùng,
lao... những công cụ thô sơ đầu tiên này được dùng vào rất nhiều việc, kể cả
làm việc và sửa chữa công cụ, tự vệ chống thú dữ, khoa học gọi thời này là thời
đồ đá cũ. Qua một thời gian dài, nhờ sống tập thể, kinh nghiệm sản xuất tang
lên, người nguyên thuỷ dần cải tiến và chuyên môn hoá các loại công cụ.
Từ
thời đồ đã cũ, loài người dần dần bước sang thời đại đồ đã mới, đặc điểm của thời
đại này là công cụ chế tạo có kỹ thuật hơn, tinh vi hơn... còn người đã áp dụng
rộng rãi kỹ thuật mài nhẵn đá, nhiều loại công cụ mới sắc bén ra đời như việc
phát minh ra cung tên, mũi tên bằng đá nhọn có thể được bắn ra xa và xuyên qua
được con vật lớn, cung tên ra đời thúc đẩy nghề săn bắn phát triển.
Bên
cạnh đó nghề nông nguyên thuỷ cũng phát triển lúc đầu con người chỉ biết vứt hạt
ở quanh nhà dùng gậy nhọn ở xỉa đất để gieo trồng về sau họ chế tạo là rìu để
phát cỏ, chặt cây rừng, chế tạo ra quốc để vỡ đất, cho nước vào ruộng để trồng
trọt dùng súc vật nuôi để kéo cày. Khi nghề chăn nuôi thay thế nghề săn bắn và
nghề nông dần dần thay thế việc hái lượm, thì người nguyên thuỷ có điều kiện định
cư. Do cuộc sống định cư cho nên người nguyên thuỷ có được sự tư duy sáng tạo,
phục vụ cho lợi ích của bản thân.
Cuối
thời nguyên thuỷ, con người đã biết luyện đồng và đồng thau. Thời đại kim thuộc
bắt đầu tiếp theo con người còn biết luyện cả sắt. Những công cụ được chế tạo bằng
những thứ kim loại đó đã tạo ra sự tang lên vượt bậc của năng suất lao động,
kinh tế sản xuất thay thế săn bắt hái lượm và chiếm vị trí chủ đạo
II. Vai trò công cụ lao động trong thời
kỳ chiếm hữu nô lệ
Ngành
kinh tế trong xã hội chiếm hữu nô lệ có ba ngành sản xuất chính:
Trồng
trọt, chăn nuôi và thủ công nghiệp.
*
Trồng trọt: công cụ chủ yếu là bằng đá và gỗ năng suất lao động
thấp
*
Chăn nuôi: Ngoài việc cung cấp sức kéo cho nông nghiệp còn cung cấp thực phẩm
cho con người.
*
Thủ công nghiệp: Phát triển đáng kể với các công cụ lao động tương đối hoàn thiện
ngay từ thời ấy đã xuất hiện những xưởng thủ công và những công trường khai
thác quặng, mỏ lớn.
Công
cụ lao động trong thời đại chiếm hữu nô lệ được hoàn thiện dần, người ta bắt đầu
chế tạo và sử dụng những công cụ bằng kim loại, đầu tiên là công cụ bằng đồng đỏ,
đồng thau, rồi đến bằng sắt. ngoài những công cụ thông thường như cày, liềm,
rìu, xẻng, cào...
Mặc
dù công cụ lao động trên còn thô sơ và nặng nề nhưng đã tạo điều kiện để nâng
cao năng suất lao động hơn so với khi còn sử dụng những công cụ bằng đá trước
kia.
Việc
phát hiện ra đồng rồi đến sắt và việc chế tạo ra các công cụ lao động bằng đồng
và bằng sắt đã tạo ra một bước ngoặt to lớn trong sản xuất ra của cải vật chất,
nó đã góp phần đưa con người bước một bước tiến dài trong lịch sử từ thời kỳ
nguyên thủy sang thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Cùng với sự chuyển rời từ thời kỳ này
sang thời kỳ khác là sự văn minh của con người ngày càng cao giúp cho xã hội
ngày càng phát triển đi lên.
III. Vai trò công cụ lao động trong thời
kỳ phong kiến.
Dưới
chế độ phong kiến ngành kinh tế có vai trò quyết định nhất là nông nghiệp.
Trong thời kỳ đầu của chế độ phong kiến công cụ còn rất thô sơ dần dần về sau mới
áp dụng phổ biến các công cụ bằng sắt, do nhu cầu tiêu dùng một số sản phẩm nông
nghiệp thời bấy giờ một số ngành nông nghiệp mới ra đời như trồng nho, rau,
chăn nuôi ngựa cừu dần đến yêu cầu phải cải tiến công cụ sản xuất nông nghiệp
và nó cũng làm cho một số ngành nghề thủ công phát triển. Trước hết phương pháp
nấu gang và chế biến sắt được cải tiến một bước quan trọng. Thế kỷ 14 con người
đã biết dùng luồng xe nước để thổi bể rèn, giã quặng, thông gió trong lò, sử dụng
cối xay chạy bằng sức gió, sức nước....
Trong
thời kỳ này với việc cải tiến công cụ lao động đã giúp cho xã hội có những bước
tiến quan trọng trong sản xuất làm nền tảng cho các thời kỳ tiếp theo.
IV. Vai trò công cụ lao động trong chủ
nghĩa tư bản
Đặc
điểm của thời kỳ này là công cụ lao động vô cùng phát triển do trong thời kỳ
này con người có nhiều thành quả trong phát triển khoa học, kỹ thuật việc chế tạo
ra máy móc đã tạo khả năng to lớn cho việc rút ngắn thời gian lao động và giảm
nhẹ lao động tăng thêm của cải cho người sản xuất cho sự thắng lợi của con người
đối với lực lượng tự nhiên.
Nhưng không có vấn đề nào không có mặt trái của nó, khi máy móc nằm trong tay giai cấp tư sản, máy móc lại được sử dụng làm phương tiện tăng cường bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối. Biến người sản xuất thành vật phụ thuộc vào máy móc làm cho người bị các lực lượng tự nhiên lô dịch. Mặc dù vậy cần nhấn mạnh rằng máy móc và đại công nghiệp có tác dụng chủ yếu làm cho năng suất lao động tang vọt, xã hội hoá lao động và sản xuất ngày càng cao dẫn đến mở rộng thị trường, thúc đẩy sự ra đời của trung tâm công nghiệp và những thành thị lớn, đồng thời tạo ra những tiền đề vật chất - kỹ thuật và xã hội cho một hình thái xã hội mới cao hơn
3. Ý NGHĨA CỦA CÔNG CỤ LAO ĐỘNG ĐỐI VỚI
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LOÀI NGƯỜI
-
Kể từ khi con người bắt đầu xuất hiện thì việc lao động cũng bắt đầu xuất hiện
nhằm đáp ứng được những nhu cầu của con người, và theo đó tất nhiên công cụ lao
động cũng sẽ ra đời nhằm giúp cho việc lao động trở nên dễ dàng hơn, từ những
cành cây, những hòn đá,.. cho tới sự phát minh ra lửa rồi đến sự tiến hoá đầu
tiên của công cụ lao động đó chínnh là con người biết dung những vật sắc ngọn,
tuy nhiên thời kỳ này con người vẫn phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên như hái lượm,
săn bắt,…
-
Thời kỳ Trung cổ, với sự phát minh ra thuật luyện kim đã thay đổi rất nhiều mặt
đời sống của con người. Con người bắt đầu dùng kim loại để tạo ra những công cụ
sản xuất như cuốc, rìu, liềm,… để phục vụ cho việc trồng trọt, chăn nuôi và từ
đó sinh ra của cải vật chất, và bắt đầu phân hoá ra giàu nghèo. Với việc trồng
trọt, sử dụng sức khéo của con vật, của cối xoay gió chạy bằng sức gió hay sức
nước thì con người đang sử dụng cực tốt những gì mà tự nhiên mang lại
-
Thời kỳ Cận đại, với việc phát minh ra những máy móc công nghiệp thì con người
đã thay thế những công cụ lao động bằng chân tay thành những công cụ máy móc để
phục vụ đầy đủ hơn cho cuộc sống của con người. Và kể từ lúc này con người đã dần
tách mình khỏi tự nhiên, không còn phụ thuộc vào tự nhiên nữa
-
Và thời hiện đại ngày nay, với việc phát triển cực kỳ của khoa học kỹ thuật,
công cụ lao động ngày nay dần trở nên Tự động hoá và hầu như không còn dựa vào
sự điều khiển của con người, Cuộc sống của con người ngày nay vô cùng đầy đủ và
phát triển
0 Nhận xét